Hương sắc “Hoa trên Núi Thánh” - Tác giả: Vincent Mai Văn Phấn
15.12.2025
I – Dẫn nhập
Văn học Công giáo Việt Nam là bộ phận quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc, hình thành và phát triển liên tục từ thế kỷ XVII đến nay. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, những công trình nghiên cứu có hệ thống về dòng văn học này vẫn còn hạn chế. Phần lớn thành tựu văn học Công giáo chỉ được đề cập phân tán trong các nghiên cứu lịch sử văn học hoặc trong một số chuyên khảo riêng lẻ. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của công trình nghiên cứu và phê bình văn học Công giáo “Hoa trên Núi Thánh” (NXB Hồng Đức, 2025) của Bùi Công Thuấn có ý nghĩa đặc biệt. Tác phẩm này phác họa tổng thể văn học Công giáo kéo dài bốn thế kỷ, kết hợp khảo cứu tư liệu, phân tích thi pháp và phê bình hiện đại để tạo nên cái nhìn toàn diện, có chiều sâu.
Việc tiếp cận “Hoa trên Núi Thánh” không chỉ nhằm đánh giá đóng góp học thuật của cuốn sách, mà còn góp phần nhận diện lại tiến trình văn học Công giáo Việt Nam trong mối liên hệ rộng hơn với văn học dân tộc. Tác phẩm cho thấy văn học Công giáo đã tham gia vào quá trình hình thành chữ Quốc ngữ, phát triển báo chí, đổi mới văn xuôi và thơ ca, đồng thời tạo nên không gian văn hóa – tư tưởng mang tính đối thoại giữa truyền thống Kitô giáo và bản sắc văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, chuyên luận về tuần báo Nam Kỳ Địa Phận trong cuốn sách đem lại cái nhìn sâu sắc về một diễn đàn văn hóa – báo chí có vai trò quan trọng trong đời sống trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX. Phần giới tiệu các tác giả trẻ Công giáo sáng tác và nghiên cứu văn học đương đại làm nên diện mạo một nền văn học Công giáo đầy tiềm năng.
Bài viết này nhằm thể hiện hai mục tiêu: (1) xem cuốn sách như một công trình tổng thuật giúp tái dựng diện mạo văn học Công giáo từ thời khởi nguyên đến hiện đại; (2) tiếp cận tiến trình văn học ấy theo cấu trúc lịch đại mà tác phẩm đã gợi mở. Dựa vào cấu trúc cuốn sách, người viết triển khai theo bốn giai đoạn: giai đoạn hình thành (thế kỷ XVII–XIX), giai đoạn cận hiện đại (đầu thế kỷ XX), giai đoạn các tác giả truyền thống với những đóng góp bền vững, và giai đoạn văn học Công giáo đương đại trong thế kỷ XXI. Thông qua phân tích nội dung, kết cấu, tư tưởng và giá trị nghệ thuật của “Hoa trên Núi Thánh”, bài viết hướng đến khẳng định vị trí của công trình trong nghiên cứu văn học tôn giáo tại Việt Nam nói chung, đồng thời góp phần xác định hành trình văn học Công giáo trong tương quan với quá trình vận động của văn học dân tộc và bối cảnh văn hóa Việt Nam qua nhiều thời kỳ.
II – Bối cảnh hình thành
Văn học Công giáo Việt Nam khởi sinh trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử. Ngay từ năm 1533, khi giáo sĩ I-nê-khu (Ignacio) đặt chân đến truyền giảng Tin Mừng tại các làng Ninh Cường, Quần Anh và Trà Lũ thuộc vùng Nam Định ngày nay, ánh sáng Đức Tin đã bắt đầu hiện diện trên đất Việt. Đến thế kỷ XVII, với sự xuất hiện mạnh mẽ hơn của các giáo sĩ Dòng Tên ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, công cuộc truyền giáo ngày càng gắn liền với nhu cầu xây dựng hệ thống văn bản thích ứng với ngôn ngữ và văn hóa bản địa. Chính nhu cầu ấy đã thúc đẩy tiến trình hình thành và hoàn thiện chữ Quốc ngữ – một tiến trình có sự cộng tác của nhiều nhà truyền giáo cùng các tín hữu và trí thức người Việt.
Chữ Quốc ngữ không chỉ giúp truyền đạt giáo lý (chẳng hạn: “Phép giảng tám ngày” của Alexandre de Rhodes, 1593–1660) mà còn mở ra khả năng biểu đạt mới cho văn học Việt Nam, chuyển dịch dần văn học dân tộc từ mô hình Hán học sang một hình thức viết gần gũi, linh hoạt và dễ tiếp cận hơn . Thí dụ các tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Felippe do Rosario Bỉnh (1759–1833). Như phân tích trong “Hoa trên Núi Thánh”, văn học Công giáo xuất hiện từ sớm, gắn kết chặt chẽ với quá trình chuyển mình của đời sống văn hóa – ngôn ngữ Việt Nam trong giai đoạn đầu cận hiện đại. Ngay từ Lời nói đầu, Bùi Công Thuấn đã viết: “Bạn đọc gặp gỡ ở đây sự khởi đầu lực lưỡng của văn học Công giáo chữ Nôm, chữ Quốc ngữ: Lm. Lữ Y Đoan đã viết Sấm Truyền Ca, diễn ca Cựu Ước bằng thơ lục bát năm 1670,” (tr. 3).
Với việc vận dụng thể lục bát, chữ Nôm và cách kể chuyện mang tiết tấu dân gian, “Sấm Truyền Ca” cho thấy nỗ lực bản địa hóa nội dung Kinh Thánh để phù hợp với khả năng tiếp nhận của tín hữu Việt Nam. Nhìn từ góc độ thi pháp học, tác phẩm này chứng tỏ văn học Công giáo ngay từ bước khởi đầu đã không đứng ngoài truyền thống văn chương Việt; ngược lại, nó tiếp thu trực tiếp ngữ điệu và thẩm mỹ bản địa để kiến tạo một mô thức diễn ngôn tôn giáo đặc sắc. Theo nhận định của “Hoa trên Núi Thánh”, đây không chỉ là một văn bản tôn giáo mà còn là minh chứng cho sự thích ứng văn hóa và vận dụng thi pháp truyền thống vào nội dung mang tính siêu nghiệm. “Với những giá trị đã được khám phá, có thể khẳng định Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan là một ‘tác phẩm văn học Công giáo’, cũng là ‘di sản của văn học dân tộc’ có giá trị qúy báu về nhiều mặt, đặc biệt là về ngôn ngữ, về tư tưởng, về thể loại ‘truyện thơ Nôm’ và cả bản chuyển sang chữ Quốc ngữ” (tr. 280).
Bên cạnh “Sấm Truyền Ca”, nhiều tác phẩm Nôm Công giáo được sáng tác trong thế kỷ XVII và XVIII, dù hiện nay việc lưu giữ và sưu tầm chưa đầy đủ (thí dụ bộ tác phẩm chữ Nôm “Các Thánh Truyện” của Majorica), vẫn cho thấy một đời sống văn học khá phong phú của cộng đồng tín hữu. Những văn bản này thường phục vụ cho việc giảng dạy giáo lý, đồng thời phản ánh sự hòa giải giữa các yếu tố Kitô giáo và cảm thức văn hóa Việt. Chúng đóng vai trò trung gian trong quá trình chuyển ngữ, chuyển ý và hình thành những mô thức diễn giải mới về khái niệm thiêng liêng. Ở đây, văn học không chỉ là công cụ truyền đạo mà còn góp phần định hình trí thức, đạo đức và cảm thức thẩm mỹ của cộng đồng.
Sang các thế kỷ XVIII và XIX, văn học Công giáo bước vào giai đoạn trưởng thành rõ nét hơn, gắn liền với sự xuất hiện và định hình của các văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu. “Hoa trên Núi Thánh” dành một dung lượng đáng kể để phân tích hai tác giả tiêu biểu là linh mục Philippe Bỉnh và linh mục Đặng Đức Tuấn. Với 27 trước tác được hoàn thành vào khoảng năm 1822, Philippe Bỉnh đã để lại kho tư liệu phong phú và quý giá, góp phần soi sáng tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, đồng thời phản ánh sâu sắc đời sống ngôn ngữ, văn hóa và đức tin của người Việt. Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, các văn bản này góp phần định hình hệ thống từ vựng, cấu trúc và cách viết của Quốc ngữ, một hệ thống còn rất non trẻ vào thời điểm đó. Dưới góc nhìn văn hóa học, tác phẩm của ông chứa đựng những ghi chép quý giá về phong tục, đời sống cộng đồng, địa lý và xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Còn dưới góc nhìn văn học và tôn giáo, quan trọng hơn cả, Philippe Bỉnh đã xây dựng một mô hình diễn ngôn tôn giáo bằng tiếng Việt trưởng thành và có khả năng phát triển độc lập khỏi nguồn gốc Latin. “Những tác phẩm của Lm Philipphê Bỉnh là đầu nguồn giàu có của văn học Công giáo Việt Nam viết bằng chữ Quốc ngữ. Đọc thơ của Lm Philipphê Bỉnh, dù thơ ấy được sáng tác cách chúng ta hơn hai thế kỷ, người đọc hôm nay vẫn cảm nhận được sự gần gũi hiện đại. Đó là thơ của một cốt cách thi nhân thuần Việt bền vững, thơ của một Linh mục tinh ròng những phẩm chất Mục tử, và một Philipphê Bỉnh, có những đóng góp rất qúy giá cho văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ.” (tr. 255).
Song song với đó, Lm. Đặng Đức Tuấn là gương mặt tiêu biểu cho sự kết hợp giữa tư tưởng Công giáo và ý thức dân tộc. Những bản “thuật tích”, “diễn ca” và các trường ca lịch sử của ông thể hiện rõ sự quan tâm đến vận mệnh đất nước, đến những chuẩn mực đạo đức cần thiết cho đời sống xã hội. Trong cách trình bày và lập luận, các tác phẩm của ông cho thấy tinh thần cải cách và mong muốn tạo ra không gian đối thoại giữa niềm tin Kitô giáo và truyền thống văn hóa Việt. Theo nhận định của Bùi Công Thuấn, Lm. Đặng Đức Tuấn đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành tư duy văn xuôi Quốc ngữ và vào việc đưa văn học Công giáo thoát khỏi khuôn khổ thuần tôn giáo để tham dự sâu hơn vào các vấn đề xã hội. “Qua thơ văn Lm. Đặng Đức Tuấn để lại, ngài là một Linh mục yêu nước, dấn thân, chống Pháp và phải đối diện với cuộc đấu tranh tư tưởng khác là sự nghi kỵ tôn giáo.” (tr. 283). Hay: “Trong khi các tác giả văn chương chữ Nôm thời nhà Nguyễn vẫn còn sử dụng bút pháp ước lệ của văn học trung đại thì Lm. Đặng Đức Tuấn đã sử dụng bút pháp hiện thực khá hiện đại, tức là chọn tả những nét điển hình của cuộc sống, đặt nhân vật trong các mối quan hệ xã hội, qua đó gửi thông điệp về những vấn đề nhân sinh”.Xin đọc Thuật tích việc nước Nam. (tr. 294)
Nhìn chung, giai đoạn thế kỷ XVII–XIX được trình bày trong “Hoa trên Núi Thánh” là thời kỳ đặt nền tảng cho toàn bộ tiến trình văn học Công giáo Việt Nam. Đây là thời kỳ hình thành mô thức ngôn ngữ, thi pháp và tư tưởng mà các thế kỷ sau sẽ tiếp nối và phát triển. Các văn bản Nôm và Quốc ngữ sớm đã góp phần quan trọng vào sự hình thành ngôn ngữ văn học mới, đồng thời khẳng định rằng văn học Công giáo không chỉ phục vụ đời sống tôn giáo mà còn mở rộng ảnh hưởng tới các lĩnh vực văn hóa – xã hội khác. Từ nền tảng này, văn học Công giáo bước vào giai đoạn cận hiện đại với sự xuất hiện của báo chí, đặc biệt là tuần báo Nam Kỳ Địa Phận, mở ra thời kỳ phát triển mới đầy năng động và đa dạng.
III – Giai đoạn cận hiện đại
Bước sang đầu thế kỷ XX, văn học Công giáo Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, trong đó báo chí trở thành phương tiện trung tâm của đời sống văn hóa – trí thức Công giáo. Theo phân tích của Bùi Công Thuấn, sự hình thành và tồn tại lâu dài của tuần báo Nam Kỳ Địa Phận (1908–1945) là một trong những hiện tượng đáng chú ý nhất, không chỉ của văn học Công giáo mà còn của lịch sử báo chí và văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ mới. Tờ báo này vừa là diễn đàn tôn giáo, vừa là diễn đàn văn hóa, nơi các vấn đề về giáo lý, phong hóa, thời sự và văn chương được đặt vào trong mối quan hệ gắn bó với nhau, phản ánh quá trình vận động của tư duy Công giáo trong bối cảnh xã hội thuộc địa phức tạp.
Trong hơn ba thập niên tồn tại (1908–1945), tuần báo Nam Kỳ Địa Phận duy trì nhịp xuất bản đều đặn và hướng tới đại chúng, đó là sự trình hiện vượt trội so với nhiều tờ báo đương thời như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí… Mỗi số báo là hỗn hợp đa dạng của nhiều loại hình văn bản: từ “tân văn” ghi chép đời sống xã hội, những câu chuyện đời thường chứa đựng giáo lý phổ thông, kể truyện Kinh Thánh, lịch sử truyền giáo ở Việt Nam đến những “Thư chung” của Giám mục mang tính giáo huấn. Đặc biệt là phần sáng tác văn chương. Nam Kỳ Địa Phận đăng nhiều truyện ngắn, ký sự, thơ ca và các tiểu thuyết dài kỳ. Từ đó, tờ báo quy tụ được một lực lượng tác giả Công giáo hùng hậu, xây dựng bản sắc báo chí Công giáo đặc thù: gắn bó với đời sống thực tại nhưng vẫn giữ được nền tảng tư tưởng tôn giáo, đồng thời dung hòa giữa mục đích truyền giáo và nhu cầu nâng cao tri thức cộng đồng. Theo đánh giá của Bùi Công Thuấn, đây chính là môi trường văn hóa cho phép văn học Công giáo thời cận hiện đại mở rộng phạm vi ảnh hưởng, bước ra khỏi khuôn khổ nhà đạo để tham gia vào đời sống trí thức chung của xã hội Việt Nam.
Đặc biệt, tờ báo có vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa và phát triển chữ Quốc ngữ ở giai đoạn đầu thế kỷ XX. Các bài viết trên Nam Kỳ Địa Phận thường xuyên chú trọng tới tính chính xác trong cách viết và trong cách dùng từ, đồng thời khuyến khích công chúng làm quen với văn phong Quốc ngữ giản dị, hợp lý và nhất quán. Tờ báo là môi trường vận dụng ngôn ngữ viết, cũng là thiết chế góp phần định hình phong cách văn xuôi Công giáo: mạch lạc và sáng rõ trong diễn đạt, giàu tính giáo huấn nhưng tránh sa vào khuynh hướng giáo điều. Dưới góc độ văn học sử, Nam Kỳ Địa Phận là một trong những trường hợp điển hình thể hiện sự chuyển dịch của văn học Việt Nam từ lối viết cổ truyền sang báo chí và văn xuôi hiện đại.
Về phương diện nội dung, tuần báo Nam Kỳ Địa Phận thể hiện rõ chức năng giáo dục xã hội. Các bài viết bàn về phong hóa nhằm sửa đổi những hủ tục trong đời sống gia đình và cộng đồng, cổ vũ lối sống đạo đức, tiết kiệm, chăm học và gắn bó với truyền thống văn hóa dân tộc. Ở đây, giáo huấn tôn giáo được diễn giải qua ngôn ngữ đời sống, tạo nên mô hình đạo đức mang tính “hội nhập văn hóa”, kết nối tư tưởng Kitô giáo với hệ giá trị đạo đức truyền thống của người Việt. “Nam Kỳ Địa Phận có nội dung phong phú về nhiều mặt. Chuyên luận này bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật của tờ báo đối với đời sống tinh thần của người Việt đầu thế kỳ XX.” (tr. 7).
Trên bình diện văn học, tuần báo Nam Kỳ Địa Phận là môi trường đã nuôi dưỡng và giới thiệu nhiều tác giả Công giáo tiêu biểu của thế kỷ XX. Nhiều truyện ngắn, thơ và tiểu thuyết đăng dài kỳ trên báo cho thấy sự phong phú của văn xuôi Công giáo cận hiện đại, với những chủ đề xoay quanh đức tin, gia đình, tình yêu, giáo dục và đạo đức xã hội. Bằng kết hợp những câu chuyện đời thường, chuyện nhà đạo, các tác phẩm này góp phần tạo một phong cách văn xuôi mang sắc thái Công giáo nhưng vẫn gần gũi với đông đảo người đọc. Điều này cho thấy văn học Công giáo không còn bị giới hạn trong phạm vi nhà thờ mà đã trở nên một thành tố của đời sống văn hóa dân tộc.
IV – Di sản truyền thống
Sau giai đoạn sơ khởi và cận hiện đại, văn học Công giáo Việt Nam phát triển rộng lớn hơn, nơi mà những tác giả truyền thống – thuộc nhiều thế kỷ – đã tạo nền tảng tư tưởng và thi pháp có sức bền lâu dài. Những tác giả này không chỉ vận dụng các hình thức văn học quen thuộc của Việt Nam để chuyển tải nội dung tôn giáo mà còn thích nghi với những biến động lớn của lịch sử và xã hội. Như được trình bày trong “Hoa trên Núi Thánh”, việc nghiên cứu nhóm tác giả truyền thống giúp xác định sự đa dạng của văn học Công giáo cũng như nhận diện những yếu tố cấu thành đặc thù của dòng văn học này.
Trong số các tác giả truyền thống, giáo sĩ Alexandre de Rhodes là nhân vật có tầm ảnh hưởng đặc biệt. Tuy không phải là người sáng tạo văn chương theo nghĩa thuần văn học, nhưng các trước tác của ông đặt nền móng cho ghi chép, chuyển dịch và giảng dạy bằng chữ Quốc ngữ, nhiều trang văn của ông giàu chất văn chương. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của các tác phẩm văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ sau này. Sự kết hợp giữa phương pháp truyền giáo phương Tây và tinh thần thích ứng với văn hóa Việt Nam cho thấy vai trò của Alexandre de Rhodes không chỉ trong lịch sử đạo Công giáo mà cả trong lịch sử văn hóa dân tộc. Bùi Công Thuấn xem đóng góp của Alexandre de Rhodes như bước đầu hình thành một hệ ngôn ngữ có khả năng diễn đạt chiều sâu tôn giáo bằng tiếng Việt. “Rhodes góp sức hoàn thiện chữ Quốc ngữ khi in Phép giảng tám ngày (Catechismus–nhà in Bộ Truyền giáo Roma năm 1651) và Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum–ấn hành tại Roma năm 1651)” (tr. 160)
Bên cạnh đó, Lm. Đặng Đức Tuấn (1806–1874) thuộc thế kỷ XIX là một trong những gương mặt quan trọng tiêu biểu cho tinh thần kết hợp giữa đức tin Kitô giáo và ý thức dân tộc như đã nói ở trên (xin đọc các bản điều trần và “Thuật tích việc nước Nam” của Đặng Đức Tuấn). Ông sử dụng văn xuôi Quốc ngữ để diễn giải những vấn đề phức tạp của tôn giáo, lịch sử và đạo đức. Đặc biệt, tác phẩm của ông phản ánh sắc nét hiện thực lịch sử Việt Nam thời ông sống và thái độ dấn thân của một Linh mục yêu nước (ông tham gia sứ bộ Phan Thanh Giản ký hòa ước 1862). Qua những điều trần và sáng tác của ông, ta nhận thấy nỗ lực dung hòa giữa truyền thống Việt và thế giới quan Công giáo, sự phân định rạch ròi giữa đức tin và đất nước: tôn giáo không đối lập với xã hội mà trở thành yếu tố định hướng lối sống và nhân cách.
Tiếp theo, không thể không nhắc đến những cây bút xuất hiện trong đầu thế kỷ XX – những người vừa chịu ảnh hưởng của văn học truyền thống vừa tiếp cận các yếu tố mới của văn học hiện đại. Nhiều tác phẩm thuộc giai đoạn này, được Bùi Công Thuấn trích dẫn và phân tích, thể hiện sự trưởng thành về tư duy nghệ thuật cũng như sự đa dạng về chủ đề: từ đời sống tín ngưỡng, giáo dục, phong hóa đến những câu chuyện đời thường mang chiều kích nhân văn. Qua các phân tích này, có thể thấy văn học Công giáo không chỉ dừng lại ở chức năng giáo huấn mà đã mở rộng sang các đề tài xã hội, đóng góp vào tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Nhìn tổng thể, các “tác giả truyền thống” tạo nên di sản phong phú cả tư tưởng và nghệ thuật. Họ đem vào văn học Việt tư tưởng Thần học, triết học và văn hóa phương tây làm phong phú thêm tư tưởng và Mỹ học phương đông đã có trong văn học Việt (Phật, Nho, Lão). Từ đó, họ đặt nền móng cho thi pháp và diễn ngôn Công giáo, đồng thời góp phần quan trọng vào việc định hình chữ Quốc ngữ và văn xuôi Việt Nam thời kỳ đầu. Khi đặt nhóm tác giả này vào dòng chảy lịch sử văn học dân tộc, có thể nhận ra rằng văn học Công giáo liên tục tương tác với văn học Việt Nam, thích ứng với hoàn cảnh, làm mới các hình thức nghệ thuật, và bồi đắp hệ giá trị nhân văn dựa trên tình yêu thương, niềm hy vọng và khát vọng hướng thiện.
V – Văn học đương đại
Bước sang thế kỷ XXI, văn học Công giáo Việt Nam cho thấy sự chuyển mình mạnh mẽ cả nội dung và nghệ thuật. Nếu “giai đoạn truyền thống” và “giai đoạn cận hiện đại” gắn với những mô hình diễn ngôn hướng giáo lý, giáo huấn và thích nghi văn hóa để loan báo Tin Mừng, thì giai đoạn đương đại chứng kiến khả năng mở rộng phạm vi biểu đạt, nơi những vấn đề nhân sinh, hiện sinh, xã hội và tâm linh được đặt trong không gian thẩm mỹ đa dạng, thậm phồn. Theo phân tích của Bùi Công Thuấn, văn học Công giáo đương đại không chỉ kế thừa di sản bốn thế kỷ trước mà còn chủ động tái cấu trúc hệ giá trị và diễn ngôn để phù hợp với bối cảnh văn hóa – xã hội mới của Việt Nam và thế giới.
Trong thế hệ các nhà thơ và nhà văn đương đại, nhiều tác giả đã hình thành phong cách riêng, góp phần tạo ra diện mạo mới cho văn học Công giáo. Những nhà thơ như Hàn Mặc Tử, Trăng Thập Tự, Xuân Ly Băng, Xuân Văn, Lê Đình Bảng, Cao Gia An, Sơn Ca Linh, Cát Đen, Trần Vạn Giã, Lê Quốc Hán, Mạc Tường… thường biểu đạt diễn ngôn mang tính chiêm niệm và triết học, trong đó đức tin không xuất hiện như biểu tượng tôn giáo cố định mà được diễn giải như hành trình tinh thần cá nhân, đặt giữa những biến động của đời sống đô thị và hiện đại. Bằng cách khai thác chiều sâu tâm thức, họ góp phần mở rộng ranh giới của thơ Công giáo, định vị thơ trong không gian giao thoa giữa tâm linh và nghệ thuật đương đại.
Ở lĩnh vực văn xuôi, những cây bút như Nguyễn Đức Thông, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Tham Thiện Kế, Nguyễn Trung Tây, Song Nguyễn, Cao Gia An, Đình Chẩn hay các nhà văn Công giáo trẻ xuất hiện gần đây đã tạo nên sự đa dạng đáng chú ý. Tiêu biểu là các nhà văn nhà thơ: Vinh Kiu, Xuân Cát, Hải Miên, Kim Thoa, Chung Thanh Huy; M.Vinc. Chung, Nguyễn Phương Thảo, Đoàn Trung Hậu, Khắc Đỗ, Phi Minh, Song Lam… Họ viết về các đề tài sống đức tin của người giáo dân hôm nay như tình mẫu tử, tình yêu thương, đời sống tu trì hay kinh nghiệm thiêng liêng, đồng thời quan tâm đến những vấn đề thế sự: nỗi cô đơn của con người hiện đại, sự giằng co giữa tín ngưỡng và hoài nghi, hay những khủng hoảng giá trị trong một xã hội biến động. Qua lối viết giàu chiêm nghiệm, văn xuôi Công giáo phản ánh được một mảng hiện thực xã hội Việt Nam qua góc nhìn đức tin góp phần hòa nhập và làm phong phú văn học Việt Nam đương đại, đồng thời giữ lại những điểm nhấn đặc trưng của Mỹ học Kitô giáo là cảm thức hy vọng, hướng thiện và chiều sâu của lòng thương xót.
Theo ghi nhận của Bùi Công Thuấn, một trong những đóng góp đặc sắc của văn học Công giáo thế kỷ XXI là sự xuất hiện của thế hệ trẻ có nền tảng hội nhập quốc tế, giữ được mạch nguồn tâm linh Việt. Các tác giả trẻ như Xuân Cát OP, Vinh Kiu, Khắc Đỗ hay Seraphim Kim Thoa mang đến giọng điệu mới mẻ, trong đó thi pháp mới/ lạ – từ thơ tự do, thơ biểu tượng, thơ hậu hiện đại, thơ tân hình thức, thơ đồ hình…, tới văn xuôi dòng ý thức, hiện thực huyền ảo, ký sự tản văn… – được sử dụng linh hoạt để biểu đạt những trải nghiệm tinh thần đương đại. Ở họ, tín ngưỡng không còn là hệ hình quy chiếu duy nhất mà trở thành điểm tiếp xúc với nhiều vấn đề rộng lớn: môi trường, công nghệ, văn hóa đô thị, di dân hay khủng hoảng bản sắc. Điều này chứng tỏ văn học Công giáo không còn bị giới hạn trong phạm vi nhà thờ, mà đã trở thành một phần tương tác trong hệ sinh thái văn hóa – xã hội của thời toàn cầu hóa.
Sự đa dạng của văn học Công giáo đương đại còn thể hiện ở khả năng đan xen nhiều phong cách và thể loại khác nhau. Một số tác phẩm trung thành với diễn ngôn truyền thống của văn học tôn giáo, sử dụng biểu tượng Kinh Thánh và giọng điệu chiêm niệm; trong khi những tác phẩm khác lại phá vỡ hình thức quen thuộc, tìm kiếm đổi mới thi pháp bằng cách kết hợp giữa tự sự đời thường và suy tư triết học. Nhiều tác phẩm chọn con đường đối thoại giữa đức tin Kitô giáo và đời sống đương đại, mở ra không gian nghệ thuật mới nơi tôn giáo vừa là nguồn cảm hứng vừa là điểm tựa để khám phá những vấn đề của hiện tại.
Nhìn từ góc độ văn học sử, văn học Công giáo đương đại đã chính thức thoát khỏi khuynh hướng thuần giáo lý để trở thành một dòng chảy mang nhiều tầng ý nghĩa. Theo nhận định của Bùi Công Thuấn, đây là giai đoạn văn học Công giáo vừa hội nhập sâu rộng với dòng chảy văn học Việt Nam, vừa gìn giữ được căn cốt của mỹ học Kitô giáo. Sự phát triển của dòng văn học này cho thấy các tác giả Công giáo có khả năng đóng góp vào diễn ngôn văn hóa chung, nâng tầm những giá trị tinh thần như tình yêu thương, sự tha thứ, niềm hy vọng và phẩm giá con người.
VI – Ý nghĩa học thuật của công trình
Trong dòng chảy nghiên cứu văn học Công giáo Việt Nam, tác phẩm “Hoa trên Núi Thánh” của Bùi Công Thuấn xuất hiện như một nỗ lực tổng hợp quy mô rộng lớn, nhằm phác họa trọn vẹn hành trình phát triển của văn học Công giáo từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XXI. Tác phẩm không chỉ tập hợp nhiều tư liệu rời rạc vốn rải rác trong các nguồn thư tịch, báo chí và văn bản học, mà còn sắp xếp, hệ thống hóa và diễn giải chúng theo một cấu trúc khoa học. Nhờ đó, cuốn sách mở ra cái nhìn toàn diện, giúp người đọc nhận rõ tính liên tục, sự đa dạng và khả năng thích ứng của văn học Công giáo trong bối cảnh văn hóa Việt Nam qua từng thời kỳ.
Một trong những đóng góp học thuật đáng chú ý của Bùi Công Thuấn là việc kiến tạo một khung lịch sử tương đối hoàn chỉnh cho văn học Công giáo Việt Nam, từ đó khẳng định vị thế của bộ phận văn học này như một thành tố hữu cơ trong cấu trúc chung của văn học dân tộc, với tiến trình phát triển và đóng góp liên tục, ngày càng phong phú qua nhiều thế kỷ. “Có thể khẳng định văn học Công giáo đã đồng hành và góp phần làm phong phú văn hóa, văn học dân tộc trong suốt quá trình lịch sử 400 năm qua.” (tr. 4)
Bên cạnh việc phục dựng tiến trình lịch sử, “Hoa trên Núi Thánh” còn thể hiện chiều sâu tư tưởng thông qua cách nhìn nhận vai trò xã hội của văn học Công giáo. Tác giả Bùi Công Thuấn khẳng định rằng văn học Công giáo không chỉ nhằm truyền giảng đức tin, mà còn gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa và đạo đức của cộng đồng. Các tác phẩm Công giáo thường hướng đến giáo dục lương tâm, xây dựng nhân cách và khơi dậy các giá trị đạo đức căn bản như lòng yêu thương, niềm hy vọng, tinh thần trách nhiệm và ý thức cộng đồng. Quan điểm này được chứng minh qua phân tích các văn bản cổ, các tác phẩm đăng trên Nam Kỳ Địa Phận, hoặc những sáng tác đương đại mang chiều kích nhân văn. Từ đó, tác phẩm cho thấy một phương diện quan trọng: văn học Công giáo tham gia trực tiếp bồi đắp những giá trị nền tảng của đời sống tinh thần dân tộc Việt.
Về phương diện nghệ thuật, “Hoa trên Núi Thánh” cho thấy sự đa dạng và khả năng thích ứng của văn học Công giáo qua nhiều thời kỳ. Từ thể thơ lục bát và văn Nôm trong thời kỳ sơ khai, tới văn xuôi Quốc ngữ trong thế kỷ XIX, rồi báo chí và văn xuôi hiện đại trong giai đoạn cận hiện đại, cho đến những thử nghiệm nghệ thuật trong thơ và văn đương đại, văn học Công giáo liên tục đổi mới để phù hợp với mạch chảy chung của văn học dân tộc và thế giới. Tác phẩm cung cấp nhiều phân tích chi tiết về thi pháp, giọng điệu và cấu trúc của các sáng tác Công giáo, từ đó khẳng định rằng đây là dòng văn học có khả năng tiếp biến mạnh mẽ, không ngừng biến đổi để đáp ứng nhu cầu biểu đạt của mỗi thời kỳ lịch sử. “Ấy là tôi mới thử nhận dạng cái mới lạ thi ca của thơ Lê Đình Bảng. Nói cách khác, là tìm kiếm những khám phá sáng tạo, điều làm nên cốt cách độc đáo thi nhân. Tôi nhận ra, ngôn ngữ thơ là điều kỳ diệu bậc nhất của sáng tạo thi ca. Dấu hiệu đầu tiên để phân biệt thi nhân với “người thợ chữ”(chữ của Nam Cao) là ở thứ ngôn ngữ kỳ diệu, mới lạ này.” (tr. 374)
Tuy nhiên, do khối lượng tư liệu phong phú và trải rộng trên nhiều thế kỷ, một số tác giả hoặc tác phẩm trong “Hoa trên Núi Thánh” chưa được phân tích sâu ở mức độ văn bản học. Việc tập trung vào các tác giả và văn bản mang tính đại diện khiến cho một số hiện tượng văn học khác của thời kỳ trung gian chưa được khai thác thỏa đáng. Dẫu vậy, những hạn chế này không ảnh hưởng đáng kể đến giá trị tổng hợp của tác phẩm. Trái lại, chúng mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo cho các học giả, nhất là trong lĩnh vực lý luận, văn bản học và thi pháp học Công giáo.
Nhìn tổng thể, “Hoa trên Núi Thánh” có thể xem là cột mốc quan trọng trong nghiên cứu văn học Công giáo Việt Nam đương đại. Tác phẩm đóng vai trò như một bản đồ có hệ thống, giúp người nghiên cứu và độc giả nhận diện rõ hành trình bốn thế kỷ văn học Công giáo; đồng thời khẳng định rằng văn học Công giáo là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình phát triển của văn học và văn hóa Việt Nam. Từ góc độ học thuật, cuốn sách tạo nền tảng cho các nghiên cứu liên ngành, từ văn hóa học, tôn giáo học đến lý luận văn học; từ góc độ văn học sử, tác phẩm góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn học Việt Nam đa tôn giáo và đa truyền thống; và từ góc độ văn hóa – xã hội, nó khẳng định vai trò của văn chương Công giáo trong nuôi dưỡng và gìn giữ những giá trị tinh thần bền vững.
VII – Kết luận
Hành trình bốn thế kỷ văn học Công giáo Việt Nam, được nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Công Thuấn hệ thống trong “Hoa trên Núi Thánh”, phác họa một tiến trình liên tục và giàu sức sống, từ văn bản Nôm – Quốc ngữ sơ kỳ, báo chí Công giáo đầu thế kỷ XX đến các sáng tác truyền thống và đương đại. Qua đó, có thể thấy văn học Công giáo luôn dung hòa tư tưởng Kitô giáo với tâm thức Việt Nam, góp phần hình thành chữ Quốc ngữ, sự phát triển của văn xuôi hiện đại và bồi đắp đời sống tinh thần – đạo đức của cộng đồng.
Ở mỗi thời kỳ, tác giả Công giáo diễn đạt đức tin bằng những hình thức nghệ thuật quen thuộc với người Việt – từ thơ dân gian, truyện giáo huấn, văn xuôi báo chí đến thơ và văn xuôi hiện đại – biến văn chương thành phương tiện đối thoại với lịch sử và những biến động xã hội. Trong bối cảnh đương đại, văn học Công giáo tiếp tục mở rộng biên độ thẩm mỹ và tư tưởng, hướng tới các vấn đề hiện sinh, xã hội và văn hóa toàn cầu.
Từ phương diện học thuật, “Hoa trên Núi Thánh” là một công trình mở đường: hệ thống hóa tư liệu, phác họa tiến trình văn học Công giáo và gợi mở nhiều hướng tiếp cận về văn bản học, thi pháp và văn hóa tôn giáo. Tác phẩm góp phần lấp đầy khoảng trống trong nghiên cứu văn học sử Việt Nam, đồng thời định vị văn học Công giáo như bộ phận quan trọng của văn học dân tộc.
Tuy nhiên, từ những gợi mở của cuốn sách, có thể thấy lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn rộng lớn. Việc tiếp tục khảo đính văn bản, đối chiếu tư liệu, cũng như mở rộng nghiên cứu liên ngành là điều cần thiết để làm sáng tỏ hơn diện mạo dòng văn học này. Đồng thời, sự vận động của văn học Công giáo đương đại đặt ra những câu hỏi mới về bản sắc, diễn ngôn và thi pháp. Chính sự biến chuyển ấy mở ra những triển vọng tươi mới cho nghiên cứu văn học nói chung, cách riêng, cho nghiên cứu văn học Công giáo Việt Nam.
Vì thế, những nội hàm mà Bùi Công Thuấn trình bày trong cuốn sách đã góp phần đặt nền móng cho một hành trình học thuật lâu dài và bền bỉ hơn. Với tôi, Bùi Công Thuấn là một trong những nhà nghiên cứu, phê bình văn học Công giáo uy tín nhất hiện nay tại Việt Nam. “Hoa trên Núi Thánh” tiếp nối mạch nghiên cứu chuyên sâu trước đó của ông, khởi từ “Những mùa vàng văn học Công giáo Việt Nam” (Nghiên cứu & Phê bình, NXB Hội Nhà văn, 2020) đến “Văn học Công Giáo Việt Nam đương đại” (Nghiên cứu & Phê bình, NXB Hội Nhà văn, 2022). Việc tiếp tục đào sâu, mở rộng và đối thoại với nhiều hệ hình nghiên cứu, từ nền tảng mà ông đã khởi dựng, sẽ giúp xác định rõ hơn vị trí của văn học Công giáo trong cấu trúc văn hóa – tinh thần Việt Nam, đồng thời đóng góp vào sự phát triển của nghiên cứu văn học nước nhà.
【Tác giả: Vincent Mai Văn Phấn】
Phát Diệm, 14/12/2025

